Lý thuyết Dow và áp dụng phân tích cổ phiếu, chứng khoán

Lý thuyết Dow được coi là cơ sở đầu tiên cho mọi nghiên cứu kỹ thuật trên thị trường và là nền tảng cơ bản của phương pháp phân tích kỹ thuật trong chứng khoán, cổ phiếu. Nhà đầu tư khi hiểu rõ về các nguyên tắc của lý thuyết Dow sẽ hỗ trợ trong việc đưa ra các quyết định đầu tư. Cùng tìm hiểu chi tiết về Lý thuyết Dow tại bài viết dưới đây. 

I. Tổng quan lý thuyết Dow là gì?

1. Lý thuyết Dow là gì?

Lý thuyết Dow hay còn gọi là Dow Theory là một tập hợp 6 nguyên tắc được dùng để xác định xu hướng biến động của thị trường và được xem là tiền đề, nền tảng và đó là cơ sở hê thống đầu tiên để phát triển nhiều chỉ số quan trọng trong phân tích kỹ thuật như: chỉ số RSI, Trendline, MACD, sóng Elliott… Nguyên tắc xây dựng lý thuyết Dow đó là coi thị trường chứng khoán là thước đo nền kinh tế quốc gia. 

Lý thuyết Dow trước đây được nghiên cứu dựa trên 2 chỉ số đó là công nghiệp và đường sắt. Đến hiện nay, mặc dù các chỉ số này đã thay đổi nhưng lý thuyết Dow vẫn còn có thể được áp dụng như một lý thuyết cơ bản. 

Khái niệm lý thuyết Dow trong chứng khoán
Khái niệm lý thuyết Dow trong chứng khoán

2. Lịch sử hình thành lý thuyết Dow trong chứng khoán

Charles.H.Dow sinh ra trong một giá đình nông dân ở Sterling khi lớn ông bắt đầu sự nghiệp của mình là một nhà báo. Đến năm 1889 ông thành lập “Công ty Dow Jones” và công bố chỉ số đầu tiên – chỉ số Dow Jones được thiết kế để đại diện cho sự chuyển động của thị trường chứng khoán.

Đầu tiên, lý thuyết Dow được đăng tải trên tờ Wall Street Journal dưới dạng là bài luận. Ông đưa kèm cùng với các dẫn chứng cụ thể về các biến động trên thị trường chứng khoán. Ông phân tích dựa trên 2 chỉ số cơ bản đó là chỉ số công nghiệp Dow Jones và chỉ số đường sắt Dow Jones.

Sau khi Dow mất năm 1902, người kế tục ông làm biên tập tại tờ nhật báo William. P. Hamilton đã tiếp tục việc nghiên cứu lý thuyết Dow này. Và sau 27 năm nghiên cứu, viết các bài báo ông đã tổ chức và cấu trúc lại thành Lý Thuyết Dow hiện nay.

Nhà phát minh lý thuyết Dow và lịch sử hình thành
Nhà phát minh lý thuyết Dow và lịch sử hình thành

Trên thị trường thực tế cho thấy hầu như tất cả các chứng khoán đều có sự dao động theo cùng một xu thế chung, cũng có trường hợp khi thị trường lên giá thì giá của một số chứng khoán sẽ tăng nhanh hơn những chứng khoán khác, khi thị trường xuống giá thì một số chứng khoán giảm giá nhanh chóng trong khi có một số khác lại tăng lên.

Khi tìm hiểu về lý thuyết Dow điểm đầu tiên cần nghiến đến chính là chỉ số trung bình của thị trường. Giá chứng khoán của các tất cả công ty đều có lên và xuống. Bên cạnh đó cũng có một số cổ phiếu chuyển động theo hướng ngược lại xu thế chung của các cổ phiếu khác thời gian có thể chỉ vài ngày hoặc vài tuần.

Quá trình nghiên cứu của mình, Charles Dow là người đã đưa ra khái niệm “chỉ số giá bình quân” với mục đích phản ảnh xu thế chung của một số cổ phiếu đại diện cho thị trường.

Trong hai loại chỉ số bình quân Dow-Jones được hình thành vào năm 1897, một trong hai loại chỉ số ấy là chỉ số của 20 công ty hỏa xạ, loại còn lại gọi là chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jone thuộc các ngành khác bao gồm 12 công ty mạnh nhất tại thời kỳ đó. Con số này có sự tăng lên từ 20 công ty vào năm 1916 đến 1928 là 30 công ty.

Nhà đầu tư khi mở tài khoản chứng khoán VPS nhập mã giới thiệu hoặc chuyển ID môi giới về 6327 – Nguyễn Đức Đông hoặc K255 – Nguyễn Thị Phương sẽ được chúng tôi hỗ trợ phần mềm Robot chứng khoán Dstockphần mềm phân tích cổ phiếu Dchart. Đây là 2 sản phẩm giúp nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro khi đầu tư và gia tăng lợi nhuận đầu tư.

Phần mềm miễn phí Robot chứng khoán Dstock đem về lợi nhuận cực cao khi sử dụng
Phần mềm miễn phí Robot chứng khoán Dstock đem về lợi nhuận cực cao khi sử dụng

II. Nguyên lý cơ bản quan trọng của Lý thuyết Dow để phân tích chứng khoán

Trong quá trình nghiên cứu về lý thuyết Dow có các nguyên lý cơ bản và quan trọng cần chú ý đó là:

1. Chỉ số bình quân thị trường phản ánh tất cả (trừ hành động của Chúa)

Tất cả các thông tin về thị trường chứng khoán bao gồm cả quá khứ và hiện tại đều được phán ánh trực tiếp qua giá cổ phiếu và cùng các chỉ số liên quan như: GDP, lạm phát, lãi suất,…

Hay hiểu chi tiết hơn đó là nó phản ánh các hoạt động có liên kết với nhau của hàng nghìn các nhà đầu tư, bao gồm cả các nhà đầu tư có kinh nghiệm dự đoán thị trường giỏi nhất, có những thông tin tốt nhất về xu hướng, các sự kiện, những gì nhìn thấy trước và tất những gì ảnh hưởng đến các loại chứng khoán. Trường hợp cả thiên tại hay thảm họa không dự tính được thì ngay khi xảy ra chúng cũng được thị trường phản ánh ngay vào giá của các loại chứng khoán.

2. Ba xu thế thị trường của lý thuyết Dow

Các thuật ngữ thị trường nhằm chỉ giá chứng khoán nói chung, dao động của thị trường tạo thành các xu thế giá, quan trọng nhất là các xu thế cấp 1 (đây là xu thế chính và xu thế cơ bản). Đó là các biến động tăng hoặc giảm với quy mô lớn và thường kéo dài trong một hoặc nhiều năm gây ra sự tăng hay giảm đến 20% giá của cổ phiếu.

Khi chuyển động theo xu thế cấp 1 sẽ bị ngắt quãng bởi có sự xen vào của các dao động cấp 2 theo hướng đối nghịch hay còn được gọi là những phản ứng, điều chỉnh của thị trường. Thường những biến động này hay xuất hiện khi xu hướng cấp 1 tạm thời vượt quá mức độ hiện tại của các biến động trung gian – biến động cấp 2. Những biến động cấp 2 bao gồm các biến động giá nhỏ đó chính là các biến động hàng ngày và không có ý nghĩa quan trọng trong Lý thuyết Dow.

Theo lý thuyết Dow của Charles Dow thì thị trường sẽ luôn có 3 xu hướng chính với 3 cấp và mỗi xu thế có những đặc điểm riêng, dưới đây là chi tiết của các xu thế.

Lý thuyết Dow và 3 cấp độ thị trường xu thế
Lý thuyết Dow và 3 cấp độ thị trường xu thế

a. Xu thế cấp 1 của lý thuyết Dow

Xu thế cấp 1 thể hiện những chuyển động lớn của giá và bao hàm cả thị trường, thường kéo dài hơn 1 năm hoặc có thể trong vài năm. Trường hợp nếu mỗi đợt tăng giá liên tiếp đều đạt được đến mức cao hơn mức trước đó và mỗi điều chỉnh cấp 2 đều dừng lại ở mức đáy cao hơn mức đáy của lần điều chỉnh trước thì xu thế cấp 1 lúc này sẽ tăng giá – thị trường khi này là thị trường tăng giá (Bull Market) – thị trường con bò tót.

Ngược lại, trường hợp nếu mỗi biến động giảm đều làm cho giá xuống những mức thấp hơn còn mỗi điều chỉnh đều không đủ mạnh để làm cho giá tăng lên đến mức đỉnh của những đợt tăng giá trước đó thì xu thế cấp 1 của thị trường khi này giảm giá, thị trường này được gọi là thị trường giảm giá (Bear Marker) – thị trường con gấu.

Thông thường, theo lý thuyết Dow thì xu thế cấp 1 chỉ là một trong 3 loại xu thế mà một nhà đầu tư dài hạn quan tâm. Bởi mục đích của các nhà đầu tư dài hạn đó là mua chứng khoán càng sớm càng tốt trong một thị trường lên giá sau đó nắm giữ đến khi và chỉ khi Bull Market thực sự kết thúc và bắt đầu Bear Market.

Nhà đầu tư hiểu rằng có thể bỏ qua một cách an toàn tất cả những xen vào của các điều chính cấp 2 và các dao động nhỏ vì nhà đầu tư họ đang đầu tư dài hạn theo xu thế chính của thị trường. Bên cạnh đó với một kinh doanh chứng khoán ngắn hạn thì những biến động của xu thế cấp 2 có vai trò quan trọng bởi nhà đầu tư kiếm được lợi nhuận dựa trên các biến động ngắn hạn của thị trường của lý thuyết Dow.

2. Xu thế cấp 2 của lý thuyết Dow

Xu thế cấp 2 đó là những điều chỉnh có tác động làm giãn đoạn quá triinh vận động của giá theo xu thế cấp 1. Đó là những đợi suy giảm tạm thời (trung gian) hay chính là những điều chỉnh xuất hiện ở các Bull Market, hoặc xuất hiện tại những đợt tăng giá hay còn gọi là hồi phục xuất hiện ở các Bear Market.

Thường thì các biến động trung gian này sẽ kéo dài từ 3 tuần đến nhiều tháng. Hoặc kéo ngược lại khoảng 1/3 đến 2/3 mức tăng (hoặc giảm tùy vào loại thị trường) của giá theo xu thế cấp 1 của lý thuyết Dow.

Trường hợp trong Bull Market nếu chỉ số giá bình quân công nghiệp tăng liên tục ổn định hoặc có gián đoạn rất nhỏ, mức tăng đạt đến 30 điểm thì khi đó xuất hiện xu thế điều chỉnh cấp 2, nhà đầu tư trông đợi xu thế điều chỉnh này có thể làm giảm từ 10 đến 20 điểm cho đến khi thị trường lặp lại xu thế tăng cấp 1 ban đầu.

Tuy nhiên, điểm lưu ý cho nhà đầu tư đó là quy tắc giảm 1/3 đến 2/3 khôn phải là một luật lệ không thể phá vỡ mà đó chỉ là một nhận xét về khả năng có thể xảy ra mà hầu hết các biến động cấp 2 đều bị giới hạn trong mức này. Rất nhiều trong số đó ngừng hoạt động ở điểm gần với mức 50% và rất hiếm khi đạt đến mức 1/3. Như vậy, có 2 tiêu chí để nhận định một xu thế cấp 2 của lý thuyết Dow đó là:

Tất cả những chuyển động của giá ngược hướng với xu thế cấp 1 kéo dài ít nhất 3 tuần và kéo hoàn lại ít nhất 1/3 mức biến động thức của xu thế cấp 1(tính từ điểm kết thúc biến động cấp 2 trước đó đến biến động cấp 2 này bỏ qua những dao động nhỏ) thì được coi là thuộc loại trung gian hay đó chính là biến động cấp 2 của lý thuyết Dow.

Đã có các tiêu chí để xác định một xu thế cấp 2 nhưng vẫn có những khó khăn trong việc xác định thời điểm hình thành và thời gian tồn tại của xu thế trong lý thuyết Dow này.

lý thuyết Dow có 3 xu thế đó là xu thế chính, xu thế thứ 2 và xu thế nhỏ.
lý thuyết Dow có 3 xu thế đó là xu thế chính, xu thế thứ 2 và xu thế nhỏ.

3. Xu thế nhỏ (Minor) của lý thuyết Dow

Theo lý thuyết Dow đã nói lên thì đây là những dao động trong thời gian ngắn (dài tối đa 3 tuần và thường chỉ dưới 6 ngày) bản thân chúng không thực sự có ý nghĩa nhưng chúng góp phần tạo nên các xu thế trung gian.

Trên thực tế khi một biến động trung gian dù là một xu thế cấp 2 hay một phần của xu thế cấp 1 xen giữa hai xu thế cấp 2 liên tiếp thì đều được tạo thành từ một dãy gồm 3 hoặc nhiều hơn những dao động nhỏ khác nhau.

Xu thế nhỏ đó là dạng duy nhất trong 3 loại xu thế có thể bị “lôi kéo” hoặc có thể hiểu đó là dễ bị tác động. Để tác động vào xu thế cấp 1 hoặc cấp 2 thì cần những giao dịch với khối lượng rất lớn và điều này hầu như là không thể.

Để làm rõ hơn khái niệm về 3 xu thế của thị trường, có thể so sánh với các biến động của sóng biển với một số điểm giống nhau như sau:

  • Xu thế cấp 1 trong giá chứng khoán giống như những đợt thủy triều lên hoặc xuống có thể so sánh thị trường lên giá (Bull Market) với thủy triều lên. Khi thủy triều dâng nước lên bờ biển ngày càng xa vào sâu trong bờ và đến đỉnh của thủy triều thì lại quay ngược trở về biển.
  • Khi thủy triều rút thì được so sánh với thị trường xuống giá (Bear Market) và cho dù trong lúc thủy triều lên hay xuống thì luôn có những con sóng đập vào bờ rồi lại lùi về biển.
  • Khi thủy triều lên mỗi con sóng liên tiếp nhau vào bờ, sóng sau vào sâu hơn sóng trước lại góp phần làm thủy triểu vào xa hơn trong bờ, nhưng khi thủy triều xuống thì mỗi con sóng không mang nước ra xa bờ mà nước giảm xuống là do sóng sau vào đến bờ ở mức thấp hơn (tụt lại hơn) so với đỉnh của sóng trước, mỗi con sóng từ đó sẽ trả lại dần dần bởi biển như trước khi thủy triều lên.
  • Những con sóng này đó là các xu thế trung gian, có thể là cấp 1 hoặc cấp 2 tùy thuộc vào hướng chuyển động của nó so với hướng của thủy triều vào thời điểm xảy ra xu thế đó.
  • Mặt biển luôn biến động với những gợn sóng nhấp nhô chuyển động cùng chiều, ngược chiều hoặc chuyển động ngang so với hướng của những con sóng lớn – Những con sóng này thường biểu hiển cho các xu thế nhỏ (đó là những dao động hàng ngày với vai trò không quan trọng như đã nói ở phần trên)
  • Những đợt thủy triều, những con sóng và những gợn sóng nhỏ chính là những hình ảnh so sánh giống nhất đối với những biến giá của một thị trường.
Các con sóng thể hiện biến động của thị trường
Các con sóng thể hiện biến động của thị trường

4. Thị trường con bò tót – Thị trường tăng giá trong lý thuyết Dow – Bull Market

Trong lý thuyết Dow một xu thế tăng giá cơ bản thường sẽ bao gồm 3 thời kì đó là:

+ Thời kì đầu tiên đó là quá trình “tích tụ” trong quá trình này, các nhà đầu tư có tầm nhìn xa sẽ tiến hành xem xét các doanh nghiệp, có thể vào thời kỳ này doanh nghiệp đang suy thoái nhưng nhà đầu tư nhận thấy khả năng doanh nghiệp có thể chuyển biến tình hình thành tăng trưởng nhanh chóng, có thể nhận cổ phiếu của nó sẽ tăng trong thời gian tới.

Đây cũng là thời điểm mà cổ phiếu này đang được chào bán rất nhiều bởi những nhà đầu tư đang có tâm lý rất chán nản và lo lắng về tình trạng của những cổ phiếu của họ và để nhằm tăng dần giá chào bán của họ khi thị trường xuất hiện sự suy giảm trong khối lượng giao dịch.

Các bản báo cáo tài chính của doanh nghiệp đó có thể không tốt hay thậm chí là rất tồi, nhà đầu tư hoàn toàn cảm thấy thất vọng khi tham gia vào thị trường chứng khoán bởi lượng tiền đã đầu tư giảm giá trị nhanh, có nguy cơ còn giảm nữa vì vậy nên các nhà đầu tư muốn thoát ra khỏi thị trường.

Bên cạnh đó có thể nhận thấy một điều vào cuối giai đoạn thứ nhất này đó là trong hoạt động của công ty và trong những biến động trên thị trường đã có những biến đchuyển tuy mới chỉ ở mức hạn chế, bắt đầu xuất hiện những đợt tăng giá nhỏ.

+ Thời kỳ thứ 2 đó là thời kỳ của sự tăng trưởng khá vững chắc. Trong thời kỳ này hoạt động của doanh nghiệp đang theo dõi gia tăng mạnh cùng với những khởi sắc trong nội bộ doanh nghiệp và doanh thu của nó cũng tăng dần lên, bắt đầu thu hút các mỗi quan tâm trên thị trường. Đây cũng chính là thời kỳ mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà kinh doanh chứng khoán theo trường phái phân tích kỹ thuật.

+ Tại thời kì thứ 3, trong thời kì này thị trường sôi sục với các biến động của nó. Nhà đầu tư háo hức với từng biến động của thị trường. Tất cả các thông tin tài chính của doanh nghiệp đưa ra đều rất tốt, giá chứng khoán tăng cao ngoài sức tưởng tượng và đang có vấn đề nóng hổi được đưa lên trang đầu của các tờ báo hàng ngày.

Đến thời điểm sau khoảng 2 năm tính từ lúc thị trường bắt đầu đi lên, những nhà đầu tư ít kinh nghiệm có thể mới cho rằng thị trường lúc này mới chắc chắn cho lợi nhuận của họ và muốn tham gia vào thị trường.

Tuy nhiên, thực sự sau hai năm giá đã tăng khá cao, câu hỏi đặt ra vào lúc này là “nên bán cổ phiếu nào?” chứ không còn hỏi là “nên mua cổ phiếu nào”? nữa. Cuối thời kì thứ 3, nhà đầu tư có thể thấy nạn đầu cơ tràn lan, khối lượng giao dịch vẫn tiếp tục tăng nhưng “air – pocket – stock”* xuất hiện ngày càng nhiều, số lượng cổ phiếu có giá thấp nhưng không có giá trị đầu tư cũng gia tăng và cả những đợt phát hành trái phiếu cũng ít dần đi.

( *Air-pocket-stock đó là các cổ phiếu đột ngột giảm giá mạnh một cách bất thường – có thể là do nhà đầu tư bán ồ ạt do một tin đồn xấu. Lý do dùng khái niệm này bởi nó được so sánh với việc máy bay đột ngột độ cao, ngoài khả năng kiểm soát khi gặp air-poket là những dòng khí hướng xuống, tác động làm mất chiều cao máy bay)

Xu hướng tăng hoặc giảm đều phải trải qua 3 giai đoạn của lý thuyết Dow
Xu hướng tăng hoặc giảm đều phải trải qua 3 giai đoạn của lý thuyết Dow

5. Thị trường con gấu – thị trường giảm giá trong lý thuyết Dow – Bear Maket

Trong lý thuyết Dow xu thế giảm giá của thị trường cũng được chia thành ba thời kỳ

+ Thời kỳ đầu tiên đó là thời kỳ “phân bổ” (đây là thời kỳ bắt đầu ở giai đoạn cuối của Bull Market trước đó). Trong thời kỳ này các nhà đầu tư có tầm nhìn xa sẽ đều nhận thấy rằng doanh thu (và các chỉ số kinh doanh nói chung) của những công ty mà nhà đầu tư  đang nắm giữ cổ phiếu đều đang đạt mức cao không bình thường và nhà đầu tư nhanh chóng thoát khỏi vị thế sở hữu cổ phiếu của những công ty này.

Khối lượng giao dịch vẫn rất cao mặc dù đã có những dấu hiệu của xu hướng giảm, công chúng vẫn rất “năng động” nhưng cũng bắt đầu có dấu hiệu lo lắng và cũng không còn nhiều kỳ vọng kiếm lợi nhuận.

+ Thời kỳ thứ hai được gọi là thời kỳ “hỗn loạn”. Số lượng các nhà đầu tư mua bắt đầu giảm dần và các nhà đầu tư bán bắt đầu trở lên vội vã bán đi những cổ phiếu mình đang nắm giữ. Xu thế giảm giá bắt đầu tăng mạnh làm đồ thị giá gần như dốc thẳng xuống và khối lượng giao dịch đạt đến mức đỉnh điểm.

Giai đoạn này được gọi là hỗn loạn vì sự sụt giảm thường xảy ra rất trầm trọng thậm chí là thái quá với mức độ vượt quá cả thực trạng của các doanh nghiệp.

Sau giai đoạn hỗn loạn có thể có giai đoạn hồi phục (một dạng xu thế cấp hai) hoặc một giai đoạn dao động ngang của đồ thị thị trường (các dao động không có hướng đi lên hay đi xuống mà là dao động trong một khoảng cố định theo chiều ngang của thị trường) trong một thời gian tương đối dài.

Giai đoạn này thể hiện tâm lý chán nản của một bộ phận nhà đầu tư, hay cũng chính là những nhà đầu tư đã cố gắng nắm giữ cổ phiếu qua thời kỳ hỗn loạn trước đó hoặc cũng có thể là những nhà đầu tư đã mua cổ phiếu trong thời kỳ đó bởi vì lúc đó giá của cổ phiếu rõ ràng là rẻ hơn rất nhiều so với trước đó vài tháng. Thông tin về các doanh nghiệp ngày càng xấu đi. Kết thúc giai đoạn này mới bước vào thời kỳ thứ ba.

+ Vào thời kỳ thứ ba, xu thế đi xuống trên thị trường đã yếu dần, nhưng lại được duy trì bởi những lệnh bán nhiều và liên tục thể hiện “nỗi buồn” và sự lo lắng của những nhà đầu tư đang rất cần tiền cho những nhu cầu riêng của họ.

Các cổ phiếu đều giảm đến mức thấp nhất, thậm chí gần như mất hoàn toàn giá trị. Những cổ phiếu có chất lượng cao hầu như không được giao dịch vì những người sở hữu chúng đều muốn nắm giữ đến cùng. Ở giai đoạn cuối của Bear Market, như một kết quả của toàn bộ thời kỳ giảm giá trước, cả thị trường chỉ tập trung vào giao dịch một số loại cổ phiếu.

Bear Market kết thúc tất cả với những tin xấu về các doanh nghiệp, về thị trường ở mức có thể coi là tồi tệ nhất đã thể hiện ra và có thể đến. 

6. Hai đường chỉ số bình quân của thị trường phải cùng xác nhận xu thế của thị trường trong lý thuyết Dow

Đây là câu hỏi thường xuyên đặt ra nhất và cũng khó giải thích nhất đối với hệ thống các nguyên lý của lý thuyết Dow. Tuy nhiên từ khi được đưa ra cho đến nay nó đã được thời gian chứng minh tính đúng đắn và nó vẫn được vận dụng cho đến ngày nay và bất kì một ai đã xem xét những số liệu ghi lại thì đều không thể có ý kiến phản đối với nguyên lý này.

Xu thế của thị trường trong lý thuyết Dow phải cùng xác nhận xu thế Chỉ số bình quân của thị trường
Xu thế của thị trường trong lý thuyết Dow phải cùng xác nhận xu thế Chỉ số bình quân của thị trường

Còn với những nhà đầu tư ít quan tâm hay bỏ qua nguyên lý này thì trong thực tế kinh doanh đã và sẽ phải nhiều lần cảm thấy tiếc nuối. Điều nguyên lý này muốn nói đến là không thể có một dấu hiệu chính xác nào về sự thay đổi xu thế thị trường có thể được khẳng định chỉ thông qua xem xét biến động của duy nhất một loại chỉ số bình quân (ở đây muốn nói đến những thị trường bao gồm nhiều chỉ số bình quân, chẳng hạn như ở Mỹ, như nói ở phần đầu, có hai loại chỉ số bình quân).

  • Chỉ số bình quân bên dưới chỉ ra thị trường đi xuống
  • Chỉ số bình quân phía trên chỉ ra thị trường đi lên

Như vậy thị trường sẽ vẫn đi xuống do cả hai không cùng xác nhận một sự đảo chiều trong xu thế hiện tại của thị trường.

Chỉ khi nào cả chỉ số bình quân cũng chỉ ra là thị trường đang có xu thế đi lên thì ta mới có cơ sở xác nhận một dấu hiệu về sự đổi chiều của xu thế chính.

Trừ khi có một biến động nào khác nếu không chỉ duy nhất chỉ số bình quân bên dưới sẽ không để chuyển hướng chung của thị trường mà thậm chí còn bị kéo xuống. Xu thế cấp 1 của thị trường rõ ràng vẫn chưa rõ ràng. Đây là một ví dụ áp dụng nguyên lý về sự xác nhận. Không cần thiết cả hai chỉ số bình quân phải cùng xác nhận vào 1 ngày.

Thường thì cả hai chỉ số này sẽ cùng chuyển động đến cùng một khoảng đỉnh hoặc đáy mới, nhưng có nhiều trường hợp mà một trong hai chỉ số sẽ trễ hơn chỉ số kia vài ngày, vài tuần, thậm chí là một đến hai tháng. Trong những tình huống như vậy thì nhà đầu tư phải giữ kiên nhẫn và đợi cho đến khi thị trường thật sự thể hiện ra bản chất xu hướng của nó.

7. Khối lượng giao dịch áp dụng kèm với xu thế thị trường của lý thuyết Dow

Điều này thể hiện một thực tế là khi giá biến động theo đúng xu thế cấp 1 thì các họat động kinh doanh trên có xu hướng mở rộng hơn. Do vậy, với Bull Market, khối lượng giao dịch sẽ tăng nếu giá tăng, và sẽ thu lại nếu giá giảm; với Bear Market giá trị giao dịch sẽ tăng nếu giá giảm và ít khi giá có dấu hiệu phục hồi.

Điều này vẫn đúng ở mức độ thấp hơn tức là với những xu thế cấp 2, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của một xu thế hồi phục cấp 2 trong một Bear Market, khi mà các diễn biến của thị trường chỉ ra rằng giá sé tăng lên theo một số đợt tăng giá nhỏ, còn các biến động kéo giá xuống giảm đi.

Các kết luận ở đây thường không có giá trị nếu chỉ dựa trên diễn biến trong vài ngày và càng không có giá trị với những kết luận dựa trên một phiên giao dịch đơn lẻ.

Nguyên lý này chỉ phát huy hiệu quả nếu dựa trên những diễn biến của khối lượng giao dịch chung trong thời gian giao dịch tương đối dài.

Khối lượng giao dịch kết hợp cùng với xu thế thị trường lý thuyết Dow.
Khối lượng giao dịch kết hợp cùng với xu thế thị trường lý thuyết Dow.

Hơn nữa, theo Lý thuyết Dow thì chỉ dựa trên những phân tích về giá mới có thể đưa ra được những dấu hiệu mang tính quyết định về xu thế thị trường, còn khối lượng giao dịch chỉ có thể cung cấp thêm những chứng cứ phụ để giải thích rõ hơn biến động của thị trường và sử dụng vào những tình huống khi dấu hiệu chính tỏ ra còn nhiều nghi ngờ. 

8. Đường ngang có thể thay thế cho các xu thế cấp 2

Đường ngang theo định nghĩa của Lý thuyết Dow là những chuyển động ngang có tính chất trung gian của thị trường phản ánh thời kỳ mà giá biến động rất ít (với thị trường Mĩ là nhỏ hơn hoặc bằng 5%). Đường ngang thường kéo dài từ 2 đến 3 tuần hoặc đôi khi là lâu hơn (trong vài tháng). Khi thị trường xuất hiện mô hình dạng đường ngang, điều này chỉ ra rằng áp lực của cung và cầu trên thị trường là tương đối cân bằng.

Thực tế trong giai đoạn này các lệnh đặt mua hoặc bán đều thể hiện một sự kiệt sức. Nhà đầu tư muốn mua cổ phiếu thì phải tăng mức giá chào mua để khuyến khích các nhà đầu tư có cổ phiếu mà họ muốn bán cho họ, còn các nhà đầu tư muốn bán thì với thị trường có biến động dạng đường ngang họ thấy rằng số lượng người mua đang ít dần và kết quả là họ phải giảm giá để có thể bán được những cổ phiếu của mình.

Do vậy một mức giá dao động vượt ra ngoài mức dao động của mô hình đường ngang đang xuất hiện trên thị trường sẽ là một dấu hiệu rõ ràng cho một thị trường lên hoặc xuống giá tùy thuộc vào hướng của dao động vượt ra ngoài. Nhìn chung mô hình đường ngang càng kéo dài lâu và biên độ dao động càng nhỏ thì ý nghĩa của dao động vượt ra ngoài mô hình đường ngang càng lớn.

Mô hình đường ngang thường diễn ra dài vừa đủ để khoảng thời gian tồn tại của nó mang một ý nghĩa quan trọng đối với các nhà đầu tư phân tích thị trường theo trường phái lý thuyết Dow.

Những biến động vượt ra ngoài mô hình đường ngang có thể là dấu hiệu cho thấy mô hình này chính là những mức đỉnh hoặc đáy rất quan trọng của thị trường bởi nếu là đỉnh thì đó chính là giai đoạn “phân bổ” – giai đoạn ban đầu của một Bear Market; còn nếu dấu hiệu cho thấy nó có thể là mức đáy của thị trường thì đây là giai đoạn “tích tụ” – giai đoạn đầu của một Bull Market.

Thông thường nhất, nó đóng vai trò như một thời kỳ yên tĩnh thuộc giai đoạn cuối cùng trong quá trình hình thành hoặc thuộc giai đoạn củng cố xu thế cấp 1 của thị trường.

Trong những trường hợp đó mô hình này đóng vai trò như những sóng cấp 2. Mức biến động 5% cũng hoàn toàn chỉ là một mức biên độ được xác định theo kinh nghiệm bởi trên thực tế rằng mô hình đường ngang có rất nhiều điểm tương đồng với mô hình cũng có nhiều biến động ngang với biên độ lớn hơn nhưng hai biên của nó vẫn được xác định khá rõ ràng và tương đối chuẩn nên cũng được tính là một loại mô hình đường ngang.

9. Chỉ sử dụng mức giá đóng cửa để nghiên cứu

Lý thuyết Dow không quan tâm và ít đề cao đến các mức biến động giá (thậm chí là cả mức giá cao nhất và thấp nhất) trong ngày mà chỉ quan tâm đến những số liệu cuối ngày giao dịch, chẳng hạn như mức bình quân giá bán cuối cung trong ngày.

Sử dụng mức giá đóng cửa để nghiên cứu là một trong nguyên lý của lý thuyết Dow
Sử dụng mức giá đóng cửa để nghiên cứu là một trong nguyên lý của lý thuyết Dow

Xem xét một thị trường với xu thế cơ bản là tăng giá và đang ở thời điểm giá tăng và đạt mức đỉnh của ngày hôm đó vào 11 giờ sáng, giả sử lúc đó chỉ số bình quân đang là 152.45 sau đó lại giảm xuống mức giá đóng cửa là 150.70. Để có thể xác nhận thị trường vẫn đang trong xu thế cơ bản là tăng giá thì ở đợt tăng giá tiếp theo mức giá đóng cửa phải cao hơn 150.70.

Trong trường hợp này mức đỉnh 152.45 không được quan tâm đến. Trái lại nếu ở đợt thứ 2, dù giá có đạt đến mức đỉnh ở 152.60 nhưng giá đóng cửa lại nhỏ hơn 150.70 thì hoàn toàn có cơ sở để nghi ngờ liệu xu thế tăng giá hiện tại có còn tiếp tục hay không.

Trong những nắm gần đây, nhiều ý kiến đã được đưa ra xung quanh vấn đề liệu chỉ số giá bình quân phải tăng thêm hay giảm đi bao nhiêu so với giới hạn đạt được của đợt dao động giá trước (đỉnh hoặc đáy) để có thể báo hiệu (xác nhận một xu thế mới hoặc xác nhận lại xu thế hiện tại) xu thế thị trường.

Dow và Hamilton luôn rất cẩn thận trong việc xem xét bất cứ một dao động nhỏ nào xen vào xu thế hiện tại làm giá thay đổi thậm chí đến 0. 01 và hai ông đều cho rằng dấu hiệu đó hoàn toàn có thể là một dấu hiệt đúng. Nhưng ngày nay nhiều nhà phân tích cho rằng mức thay đổi đó phải đạt ít nhất 1.00 mới có thể được coi là một dấu hiệu của thị trường.

10. Một xu thế được duy trì cho đến khi có một dấu hiệu về sự đảo chiều của xu thế đó được xác định

Nguyên lý này là một trong những nguyên lý có nhiều ý kiến tranh cãi nhất. Nhưng khi được hiểu chính xác nó vẫn có giá trị rất lớn trong phân tích thị trường. Nguyên lý này giúp đề phòng với những thay đổi (phản ứng) quá sớm trong quan điểm về thị trường, theo như chúng ta hay nói là “cầm đèn chạy trước ô tô”, của bất kì nhà đầu tư nào.

Điều này không nhằm làm nhà đầu tư trì hoãn hành động của mình lại một cách không cần thiết, cho dù là chỉ một phút, khi những dấu hiệu về sự thay đổi của xu thế thị trường là đã rõ ràng, nhưng nó nhắc nhở một điều rằng lợi thế sẽ nghiêng về phía các nhà đầu tư biết chờ đợi cho đến khi họ chắc chắn về tình hình thị trường và rõ ràng sẽ không nghiêng về các nhà đầu tư quá nôn nóng với hành động của họ.

Khả năng xảy không thể được phát hiện một cách rõ ràng bởi bản chất của nó là những biến động thực tế của thị trường và chúng thay đổi thường xuyên. Bull Market không thể lên giá mãi và Bear Market thì sớm muộn cũng đạt đến đáy của nó.

Lý thuyết Dow sẽ có Xu hướng duy trì cho đến khi có dấu hiệu đảo chiều
Lý thuyết Dow sẽ có Xu hướng duy trì cho đến khi có dấu hiệu đảo chiều

Khi một xu thế cấp 1 của thị trường vừa mới được hình thành thì cho dù có những dao động trong ngắn hạn ta vẫn có thể chắc chắn rằng nó không thay đổi, nhưng nếu nó kéo dài càng lâu thì mức chắc chắn càng ít dần đi, các điểm tái xác nhận xu thế thị trường cũng có giá trị ít dần đi.

Động lực của người mua và khả năng bán được những cổ phiếu với giá cao hơn giá mua để kiếm lời sẽ ngày càng thấp nếu như Bull Market đã tồn tại trong nhiều tháng và rõ ràng là thấp hơn khi nó mới hình thành. 

Một hệ quả tất yếu từ nguyên lý này đó là khi đã có những dấu hiệu về sự thay đổi của xu thế thị trường thì sự thay đổi đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vì vậy bất cứ nhà đầu tư nào cũng cần phải theo dõi thị trường một cách thường xuyên.

III. Một vài điểm hạn chế của lý thuyết Dow chứng khoán

Bất kể học thuyết nào không phải lúc nào cũng đúng và lý thuyết Dow cũng vậy, sẽ có tồn tại các mặt hạn chế. Thực tế lý thuyết Dow đúng hay sai phụ thuộc vào tình hình thực tế của thị trường

  • Lý thuyết Dow có độ trễ: Thị trường luôn biến động không ngừng và nếu nhà đầu tư đợi đủ 3 giai đoạn phân phối thì sẽ làm mất đi nhiều cơ hội đầu tư ở phần đầu và phần cuối xu hướng.
  • Lý thuyết Dow không áp dụng cho khung đầu tư ngắn hạn: Đầu tư ngắn hạn đó một kênh thu về lợi nhuận nhưng lý thuyết Dow không thể áp dụng trong trường hợp này.
  • Lý thuyết Dow không có điểm vào lệnh rõ ràng: Thực tế lý thuyết chỉ ra xu hướng thị trường nhưng lại không chỉ ra điểm vào lệnh nên nhà đầu tư cần kết hợp thêm với các công cụ phân tích kỹ thuật khác để tìm từ đó đưa quyết định đầu tư đúng thời điểm thu về lợi nhuận cao.
Những điểm hạn chế cần biết của lý thuyết Dow
Những điểm hạn chế cần biết của lý thuyết Dow

IV. Một số kinh nghiệm khi sử dụng lý thuyết Dow chứng khoán

+  Lý thuyết Dow – sự thoái lụi trong hỗ trợ hoặc kháng cự

Trong biểu đồ dưới đây thể hiện mức 1.10000 đã đóng vai trò mức Hỗ trợ và Kháng cự trong một số trường hợp và sau khi vượt qua mức 1.109911 thì đánh dấu mức thấp mới ở mức 1,09642. bắt đầu một xu hướng giảm mới theo lý thuyết Dow khiến kho khu vực 1.10000 là mức hỗ trợ chính nơi sự bứt phá vỡ tăng giá ở mức này mở ra cánh cửa để khám phá xu hướng mới trong cặp tiền này.

Ví dụ cụ thể về biểu đồ lý thuyết sóng Dow
Ví dụ cụ thể về biểu đồ lý thuyết sóng Dow

+ Lý thuyết Dow PDF – Dòng thác của các mức thấp

Trong biểu đồ, có thể thấy cách giá phá vỡ liên tiếp các mức thấp khác nhau đánh dấu một xu hướng giám rõ ràng trong DAX30 CFD.

Ví dụ biểu đồ lý thuyết Dow PDF
Ví dụ biểu đồ lý thuyết Dow PDF

+ Lý thuyết Dow chứng khoán – Dòng thác Maxima đó là cùng một trường hợp trước đó nhưng theo hướng ngược lại.

Dòng thác Maxima – lý thuyết Dow trong chứng khoán
Dòng thác Maxima – lý thuyết Dow trong chứng khoán

Qua đây có thể thấy lý thuyết Dow là phương pháp đơn giản, có thể nghiên cứu từng kịch barnm dự đoán được thị trường và chỉ ra điểm giả lập thị trường. Tuy nhiên, có một nhược điểm đó là giá có thể tiếp tục chuyển động mà không quay trở lại vùng mong muốn.

Nhà đầu tư khi tham gia thị trường chứng khoán cần kết hợp sử dụng các phương pháp phân tích kỹ thuật bằng các phần mềm chứng khoán song hành với lý thuyết Dow để đem về hiệu quả cao hơn trong quá trình quyết định đầu tư. Với các chỉ số trên thì hiện tại có phần mềm chứng khoán Amibroker có các chỉ số này và có điểm mua/bán của nó.

Nhà đầu tư nên kết hợp sử dụng phần mềm chứng khoán Amibroker và lý thuyết Dow để đạt hiệu quả lợi nhuận cao trong quá trình đầu tư. Để hiểu chi tiết hơn nhà đầu tư tham khảo tại đây

Trên đây, là kiến thức chi tiết về lý thuyết Dow, các nguyên lý của lý thuyết Dow và một số điều cần biết về lý thuyết Dow. Hy vọng với những chia sẻ trên nhà đầu tư hiểu hơn về các nguyên lý của lý thuyết Dow và từ đó có những chiến lược đầu tư đem về lợi nhuận cao.

Nhà đầu tư tham khảo thêm về một số dịch vụ chứng khoán của chúng tôi đang cung cấp như: Dữ liệu Amibroker, phần mềm chứng khoán, Youtube chứng khoán, Code Amibroker,..  Hãy truy cập vào website: nududo.com hoặc hotline: 0387.095.129 để biết thêm chi tiết.

2 những suy nghĩ trên “Lý thuyết Dow và áp dụng phân tích cổ phiếu, chứng khoán
  1. Pingback: GIỚI THIỆU VỀ PHẦN MỀM PHÂN TÍCH CHỨNG KHOÁN AMIBROKER

  2. Pingback: [3 TRICK] Tạo đỉnh trong chứng khoán phân tích cổ phiếu

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *